Mưa đầu mùa ở Đồng Nai rả rích ngoài hiên Thiền viện Nguyên Không. Tôi ngồi bên cửa sổ, châm một nụ trầm cúng dường Tam bảo, khói uốn lượn nhẹ như hơi thở an yên của núi rừng.
Mở điện thoại, tình cờ tôi thấy một đoạn video của một vị sư trẻ, trạc tuổi mình, đang giảng pháp cho các em học sinh về công ơn cha mẹ. Chỉ vài phút ngắn ngủi, nhưng lòng tôi chợt như bị đánh thức. Cả một quãng đời xưa ùa về, những năm tháng tôi còn là một chàng trai phong trần, ưa rong ruổi, chưa từng bước chân vào chùa, chưa từng nghĩ một ngày sẽ khoác trên mình tấm y vàng.

Ngày ấy, tôi chỉ biết rong chơi, tụ tập bạn bè, say sưa những thú vui trần thế. Cho đến khi mạng xã hội mở ra một cánh cửa mới: tôi quen vài người Phật tử, thường thấy họ đăng hình ảnh quý thầy trẻ khoác y vàng nghiêm trang. Lần đầu chạm mắt, tôi bất giác run lên, nước mắt trào ra không rõ vì sao. Từ đó, những ngày rằm, mùng một, tôi lặng lẽ tìm đến ngôi chùa gần nơi ở, lễ Phật, ăn một bữa cơm chay với ý nghĩ đơn sơ là “lấy may”, mà chưa hề biết thế nào là quy y Tam bảo.
Rồi những giấc mơ kỳ lạ liên tiếp tìm đến. Tôi thấy mình là một Hòa thượng già đứng trước chánh điện rêu phong; thấy Đức Phật Bổn Sư cùng bảy vị Tỳ-kheo khất thực từ núi xuống; thấy chính mình khoác y vàng về độ cha mẹ; thấy Đức Phật Bổn Sư hiện trên trời giữa mây bảy sắc. Những giấc mộng ấy gieo vào tôi một niềm tin không gọi tên, và một ngày kia, tôi tự hỏi: “Nếu ở đời, mình chỉ độ được gia đình. Còn xuất gia, mình có thể giúp nhiều người hơn”. Nghĩ thế, tôi từ bỏ người mình thương, bỏ những cuộc nhậu, bỏ thịt cá, chuyển hẳn sang ăn chay trường.
Bấy giờ, tôi chỉ còn 53kg, người gầy yếu, nhưng lòng thì bền chặt. Nửa đêm, tôi đưa tượng Phật lên sân thượng, lập bàn thờ tạm, tụng kinh, phát nguyện một ngày sẽ được khoác áo Sa-môn và hồi hướng công đức ấy cho mẹ.
Ngày tôi nói với mẹ ý định đi tu, bà bất ngờ, rồi cười nghĩ tôi đùa. Nhưng khi thấy tôi nghiêm giọng, mẹ biến sắc, lắc đầu, bảo: “Con ở nhà đi, lập gia đình, để mẹ còn bế cháu. Làm cư sĩ cũng được, miễn đừng đi tu”. Tôi hiểu, ở quê tôi, đi tu là mất con, là cả họ hoảng sợ. Vậy nên tôi im lặng, vừa làm vừa tu, đêm nào cũng lạy Phật, mong bố mẹ đổi lòng. Rồi một hôm, tôi lại nói. Lần này, bố mẹ khóc dữ dội, dọa tự tử, nói đang bệnh nặng cần tôi chăm, rồi giới thiệu bao cô gái để tôi lấy vợ. Cả họ nội ngoại gọi điện khuyên can, không được thì mắng chửi. Nhưng tôi đã quyết. Sư phụ ở Quảng Nam đặt vé máy bay cho tôi, dặn đúng ngày sẽ đi, im lặng cho đến khi “gạo nấu thành cơm”. Nhưng mẹ tôi đã gọi cho ngài, tha thiết xin đừng nhận tôi.
Thế là tôi phải đổi đường. Đêm 11 giờ 45, lặng lẽ từ nhà một người bạn ở Nam Định, tôi ra ga tàu, chỉ mang trên mình bộ quần áo đang mặc và một chiếc điện thoại. Trên tàu, tôi nhắn cho anh trai – người duy nhất ủng hộ – nhờ chăm sóc cha mẹ. Sư phụ đón tôi ở ga Tam Kỳ, đưa về chùa. Ban đầu lạ lẫm, nhưng sư phụ thường dẫn tôi ra biển tâm sự, hay cùng huynh đệ xuống phố Hội An ăn cao lầu chay. Đúng ngày sinh nhật ngài, tôi chính thức được thế phát.
Rồi một ngày, trong khi làm việc quá sức, tôi ngất, ngã đập đầu xuống nền gạch, máu chảy nhiều. Chỉ năm giây nghĩ đến cha mẹ, rồi tôi khép lại niềm thương ấy, nhiếp tâm niệm Phật, nguyện: “Nếu con còn duyên độ sanh, xin cho qua khỏi. Nếu đã hết duyên, xin cho ra đi an lành”. May mắn, tôi chỉ bị chấn động não. Không gây tê khi khâu, tôi vẫn im lặng, vừa chịu đau vừa giảng Phật pháp cho y bác sĩ. Nhưng sau cơn ấy, tôi rơi vào trầm cảm, chỉ muốn đóng cửa một mình. Sư phụ kéo tôi ra, cho đi Yên Tử tam bộ nhất bái. Trên núi, giữa tiếng mõ chuông, tôi gặp lại bố mẹ. Nụ cười và nước mắt hôm ấy đã xua tan bóng tối trong tôi.

Những năm sau, tôi lên chùa Hinh Bồng (Chùa Hương) sống trên đỉnh núi, học oai nghi miền Bắc, hái măng, hái thuốc, ăn rau rừng ngọt mát. Rồi tôi bén duyên với Phật giáo Nguyên thủy ở Nha Trang, ôm bát khất thực, ngủ dưới đất, sống đời du tăng. Tôi thọ giới Tỳ-kheo tại Bửu Quang (Sài Gòn), sang Myanmar nhập hạ hai lần. Mỗi lần về quê, tôi thỉnh chư tăng khất thực khắp miền Bắc, thuyết pháp cho gia đình và họ hàng. Giờ đây, phần lớn họ đã quy y Tam bảo, cha mẹ từng phản đối, nay là thí chủ lớn nhất cho mọi thiện sự của tôi.
Mưa ngoài hiên vẫn rơi đều, khói trầm tan trong đêm, quấn lấy những hồi ức. Tôi biết ơn cha mẹ, họ hàng, quý thầy, huynh đệ, thiện nam tín nữ đã đi cùng tôi trên con đường này. Và tôi nguyện, cho đến hơi thở cuối cùng, vẫn sẽ là đầu tàu tâm linh đưa mọi người vượt biển khổ, hướng đến bờ giải thoát.