Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ, Kinh Pháp cú bản full có hình minh hoạ, dịch tiếng Việt bởi Hòa thượng Thích Minh Châu là công trình của Phatgiao.org.vn được tạo tác bằng một phần mềm máy tính.

Cùng chư vị bạn đọc,

Cùng Từ điển Phật học đã update lên website, Cổng thông tin Phật giáo Việt Nam từ hôm nay sắp xếp và cho đăng tải lên đây nhiều bộ Kinh Phật nhằm mục đích hoằng truyền chánh pháp đến mọi nhà. Ban biên tập hoan hỉ chia sẻ các bộ Kinh Phật tiếng Việt này và tối ưu dữ liệu này bằng một thuật toán máy tính.

Hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu bản Kinh Phật đầu tiên được thuật toán tối ưu là bản full Kinh Pháp cú có gần 9.000 từ kèm tranh minh hoạ.

Tuần tự, chúng tôi sẽ đăng tải các bản Kinh Phật tiếng Việt từ nhiều nguồn dịch, các nhà xuất bản khác nhau để bạn đọc được trì tụng dễ dàng. 

Lần lượt tới đây là Kinh Dược sư, Kinh Phổ Môn, Chú Đại bi, Kinh Địa tạng….

Lan toả Kinh Phật là trách nhiệm của chúng tôi trong hành trình tạo nhiều lợi lạc này.

Xin trân trọng thông báo.

Kinh Pháp Cú là một tập hợp những câu dạy ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa của Đức Phật Thích Ca trong ba trăm trường hợp giáo hóa khác nhau. Những câu trong Kinh này do chính Đức Phật khi còn tại thế nói ra trong suốt 45 năm thuyết pháp của Ngài.

Dhammapada là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh Tạng Pali. Ðây là một quyển kinh Phật giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới. Nhiều tác giả coi bộ kinh này như là Thánh Thư của Đạo Phật.

Các câu này về sau được các vị đại đệ tử của Đức Phật sắp xếp thành 423 bài “kệ”, chia ra làm 26 “phẩm” và tụng đọc trong Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển lần đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt.

“Pháp” có nghĩa là đạo lý, chân lý, giáo lý. “Cú” là lời nói, câu kệ. “Pháp Cú” là những câu nói về chánh pháp, những lời dạy của đức Phật nên Kinh Pháp Cú còn được gọi là “Kinh Lời Vàng” hoặc “Lời Phật Dạy“.

Kinh Pháp Cú tóm thâu tinh hoa giáo lý của Đức Phật. Ðọc những bài kệ trong kinh này người đọc cảm thấy như chính mình được trực tiếp nghe lời Phật dạy từ hơn 2500 năm trước vọng lại. Mỗi bài kệ có thể xem là chứa đựng một cách súc tích và trung thành nhất những lời dạy, những giáo lý căn bản nguyên thủy của đức Phật.

Dịch tiếng Việt: Hòa thượng Thích Minh Châu

Ảnh: Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka

 

Kinh Pháp Cú

—o0o—

Phẩm Song Yếu 

1. Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,

Khổ não bước theo sau,

Như xe, chân vật kéo.

 

2. Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Như bóng, không rời hình.

 

3. Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi 

Ai ôm hiềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi.

 

4. Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi

Không ôm hiềm hận ấy,

Hận thù được tự nguôi.

 

5. Với hận diệt hận thù,

Ðời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

Là định luật ngàn thu.

 

6. Và người khác không biết,

Chúng ta đây bị hại.

Chỗ ấy, ai hiểu được

Tranh luận được lắng êm.

 

7. Ai sống nhìn tịnh tướng,

Không hộ trì các căn,

ăn uống thiếu tiết độ,

biếng nhác, chẳng tinh cần.

Ma uy hiếp kẻ ấy,

như cây yếu trước gió.

 

8. Ai sống quán bất tịnh,

Khéo hộ trì các căn,

ăn uống có tiết độ,

Có lòng tin, tinh cần,

Ma không uy hiếp được,

Như núi đá, trước gió.

 

9. Ai mặc áo cà sa. [1]

tâm chưa rời uế trược,

không tự chế, không thực,

không xứng áo cà sa

 

10. Ai rời bỏ uế trược,

giới luật khéo nghiêm trì,

tự chế, sống chơn thực,

thật xứng áo cà sa.

 

11. Không chân, tưởng chân thật,

chân thật, thấy không chân:

Chúng không đạt chân thật,

do tà tư, tà hạnh.

 

12. Chân thật, biết chân thật,

Không chân, biết không chân:

Chúng đạt được chân thật,

do chánh tư, chánh hạnh.

 

13. Như mái nhà vụng lợp,

Mưa liền xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm không tu,

Tham dục liền xâm nhập.

 

14. Như ngôi nhà khéo lợp,

Mưa không xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm khéo tu,

Tham dục không xâm nhập.

 

15. Nay sầu, đời sau sầu,

Kẻ ác, hai đời sầu;

Nó sầu, nó ưu não,

Thấy nghiệp uế mình làm.

 

16. Nay vui, đời sau vui,

Làm phước, hai đời vui,

Nó vui, nó an vui,

Thấy nghiệp tịnh mình làm.

 

17. Nay than, đời sau than,

Kẻ ác, hai đời than,

Nó than: ‘Ta làm ác’

Ðọa cõi dữ, than hơn.

 

18. Nay sướng, đời sau sướng ,

Làm phước, hai đời sướng.

Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,

Sanh cõi lành, sướng hơn.

 

19. Nếu người nói nhiều kinh,

Không hành trì, phóng dật;

Như kẻ chăn bò người,

Không phần Sa môn hạnh.

 

20. Dầu nói ít kinh điển,

Nhưng hành pháp, tùy pháp,

Từ bỏ tham, sân, si,

Tĩnh giác, tâm giải thoát,

Không chấp thủ hai đời,

Dự phần Sa môn hạnh.

Chú thích: [1] Áo màu vàng, chỉ bậc xuất gia.

—o0o—

2. Phẩm Không Phóng Dật

21. Không phóng dật, đường sống,

Phóng dật là đường chết.

Không phóng dật, không chết,

Phóng dật như chết rồi.

 

22. Biết rõ sai biệt ấy,

Người trí không phóng dật,

Hoan hỷ, không phóng dật,

An vui hạnh bậc Thánh.

 

23. Người hằng tu thiền định,

Thường kiên trì tinh tấn.

Bậc trí hưởng Niết Bàn,

Ðạt an tịnh vô thượng.

 

24. Nỗ lực, giữ chánh niệm,

Tịnh hạnh, hành thận trọng

Tự điều, sống theo pháp

,Ai sống không phóng dật,

Tiếng lành ngày tăng trưởng.

 

25. Nỗ lực, không phóng dật,

Tự điều, khéo chế ngự.

Bậc trí xây hòn đảo,

Nước lụt khó ngập tràn.

 

26. Chúng ngu si, thiếu trí,

Chuyên sống đời phóng dật.

Người trí, không phóng dật,

Như giữ tài sản quý.

 

27. Chớ sống đời phóng dật,

Chớ mê say dục lạc.

Không phóng dật, thiền định,

Ðạt được an lạc lớn.

 

28. Người trí dẹp phóng dật,

Với hạnh không phóng dật,

Leo lầu cao trí tuệ,

Không sầu, nhìn khổ sầu,

Bậc trí đứng núi cao,

Nhìn kẻ ngu, đất bằng.

 

29. Tinh cần giữa phóng dật,

Tỉnh thức giữa quần mê.

Người trí như ngựa phi,

Bỏ sau con ngựa hèn.

 

30. Ðế Thích [1] không phóng dật,

Ðạt ngôi vị Thiên chủ.

Không phóng dật, được khen ;

Phóng dật, thường bị trách.

 

31. Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Bước tới như lửa hừng,

Thiêu kiết sử lớn nhỏ.

 

32. Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Không thể bị thối đọa,

Nhất định gần Niết Bàn.

 

Chú thích:

[1] Ðế Thích: Magha (Manavaka), vị lãnh đạo chư Thiên

—o0o—

3. Phẩm Tâm

33. Tâm hoảng hốt giao động,

Khó hộ trì, khó nhiếp,

Người trí làm tâm thẳng,

Như thợ tên, làm tên.

 

34. Như cá quăng lên bờ,

Vất ra ngoài thủy giới;

Tâm này vùng vẫy mạnh,

Hãy đoạn thế lực Ma.

 

35. Khó nắm giữ, khinh động,

Theo các dục quay cuồng.

Lành thay, điều phục tâm;

Tâm điều, an lạc đến.

 

36. Tâm khó thấy, tế nhị,

Theo các dục quay cuồng.

Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ, an lạc đến.

 

37. Chạy xa, sống một mình,

Không thân, ẩn hang sâu [1]

Ai điều phục được tâm,

Thoát khỏi Ma trói buộc. [2]

 

38. Ai tâm không an trú,

Không biết chân diệu pháp,

Tịnh tín bị rúng động,

Trí tuệ không viên thành.

 

39. Tâm không đầy tràn dục,

Tâm không (hận) công phá,

Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,

Kẻ tỉnh không sợ hãi.

 

40. Biết thân như đồ gốm,

Trú tâm như thành trì,

Chống Ma với gươm trí ;

Giữ chiến thắng [3] không tham [4]

 

41. Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vất bỏ, vô thức,

Như khúc cây vô dụng.

 

42. Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia,

Không bằng tâm hướng tà,

[5]Gây ác cho tự thân.

 

43. Ðiều mẹ cha bà con,

Không có thể làm được,

Tâm hướng chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn.

 

Chú thích:[1] Trú xứ của Thức

[2] Dục giới, sắc giới, vô sắc giới

[3] Tức là quán (vipassana) mới chứng được.

[4] Ðối với các thiền mới chứng

[5] Hướng về 10 pháp bất thiện như sát sanh v.v…

—o0o—

4. Phẩm Hoa

44. “Ai chinh phục đất này

Dạ ma, Thiên giới này?

Ai khéo giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 1

 

45. “Hữu học chinh phục đất,

Dạ ma, Thiên giới này.

Hữu học giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 2

 

46. “Biết thân như bọt nước,

Ngộ thân là như huyễn,

Bẻ tên hoa của ma,

Vượt tầm mắt thần chết.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 3

 

47. “Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say, tham nhiễm,

Bị thần chết mang đi,

Như lụt trôi làng ngủ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 4

 

48.Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say tham nhiễm,

Các dục chưa thỏa mãn,

Ðã bị chết chinh phục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 5

 

49. “Như ong đến với hoa,

Không hại sắc và hương,

Che chở hoa, lấy nhụy.

Bậc Thánh đi vào làng “.

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 6

 

50. “Không nên nhìn lỗi người,

Người làm hay không làm.

Nên nhìn tự chính mình.

Có làm hay không làm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 7

 

51. “Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc nhưng không hương.

Cũng vậy, lời khéo nói,

Không làm, không kết quả.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 8

 

52. “Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc lại thêm hương;

Cũng vậy, lời khéo nói,

Có làm, có kết quả.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 9

 

53. “Như từ một đống hoa,

Nhiều tràng hoa được làm.

Cũng vậy, thân sanh tử,

Phải làm nhiều việc lành.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 10

 

54. “Hương các loại hoa thơm

Không ngược bay chiều gió

Nhưng hương người đức hạnh

– Ngược gió khắp tung bay

– Chỉ có bậc chân nhân

– Tỏa khắp mọi phương trời.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 11

 

55. “Hoa chiên đàn, già la,

Hoa sen, hoa vũ quý,

Giữa những hương hoa ấy,

Giới hương là vô thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 12

 

56. “Ít giá trị hương này,

Hương già la, chiên đàn;

Chỉ hương người đức hạnh,

Tối thượng tỏa Thiên giới.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 13

 

57.

“Nhưng ai có giới hạnh,

An trú không phóng dật,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Ác ma không thấy đường.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 14

 

58. “Như giữa đống rác nhớp,

Quăng bỏ trên đường lớn,

Chỗ ấy hoa sen nở,

Thơm sạch, đẹp ý người.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 15

 

59. “Cũng vậy giữa quần sanh,

Uế nhiễm, mù, phàm tục,

Ðệ tử bậc Chánh Giác,

Sáng ngời với Tuệ Trí.”

—o0o—

5. Phẩm Ngu

60. “Ðêm dài cho kẻ thức,

Ðường dài cho kẻ mệt,

Luân hồi dài, kẻ ngu,

Không biết chơn diệu pháp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 16

 

61. “Tìm không được bạn đường,

Hơn mình hay bằng mình,

Thà quyết sống một mình,

Không bè bạn kẻ ngu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 17

 

62. “Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu sanh ưu não,

Tự ta, ta không có,

Con đâu, tài sản đâu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 18

 

63. “Người ngu nghĩ mình ngu,

Nhờ vậy thành có trí.

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi chí ngu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 19

 

64. “Người ngu, dầu trọn đời,

Thân cận người có trí,

Không biết được Chánh pháp,

Như muỗng với vị canh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 20

 

65. “Người trí, dầu một khắc,

Thân cận người có trí,

Biết ngay chân diệu pháp,

Như lưỡi với vị canh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 21

 

66. “Người ngu si thiếu trí,

Tự ngã thành kẻ thù.

Làm các nghiệp không thiện,

Phải chịu quả đắng cay.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 22

 

67. “Nghiệp làm không chánh thiện,

Làm rồi sanh ăn năn,

Mặt nhuốm lệ, khóc than,

Lãnh chịu quả dị thục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 23

 

68. “Và nghiệp làm chánh thiện,

Làm rồi không ăn năn,

Hoan hỷ, ý đẹp lòng,

Hưởng thọ quả dị thục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 24

 

69. “Người ngu nghĩ là ngọt,

Khi ác chưa chín muồi;

Ác nghiệp chín muồi rồi,

Người ngu chịu khổ đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 25

 

70. “Tháng tháng với ngọn cỏ,

Người ngu có ăn uống

Không bằng phần mười sáu

Người hiểu pháp hữu vi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 26

 

71. “Nghiệp ác đã được làm,

Như sữa, không đông ngay,

Cháy ngầm theo kẻ ngu,

Như lửa tro che đậy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 27

 

72. “Tự nó chịu bất hạnh,

Khi danh đến kẻ ngu.

Vận may bị tổn hại,

Ðầu nó bị nát tan.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 28

 

73. “Ưa danh không tương xứng,

Muốn ngồi trước tỷ kheo,

Ưa quyền tại tịnh xá,

Muốn mọi người lễ kính.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 29

 

74. “Mong cả hai tăng, tục,

Nghĩ rằng (chính ta làm).

Trong mọi việc lớn nhỏ,

Phải theo mệnh lệnh ta

”Người ngu nghĩ như vậy

Dục và mạn tăng trưởng.

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 30

 

75. “Khác thay duyên thế lợi,

Khác thay đường Niết Bàn.

Tỷ kheo, đệ tử Phật,

Hãy như vậy thắng tri.

Chớ ưa thích cung kính,

Hãy tu hạnh viễn ly.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 31

 

—o0o—

6 – Phẩm Hiền Trí

76. “Nếu thấy bậc hiền trí,

Chỉ lỗi và khiển trách,

Như chỉ chỗ chôn vàng

Hãy thân cận người trí!

Thân cận người như vậy,

Chỉ tốt hơn, không xấu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 32

 

77. “Những người hay khuyên dạy,

Ngăn người khác làm ác,

Ðược người hiền kính yêu,

Bị người ác không thích.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 33

 

78. “Chớ thân với bạn ác,

Chớ thân kẻ tiểu nhân.

Hãy thân người bạn lành,

Hãy thân bậc thượng nhân.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 34

 

79. “Pháp hỷ đem an lạc,

Với tâm tư thuần tịnh;

Người trí thường hoan hỷ,

Với pháp bậc Thánh thuyết.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 35

 

80. “Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn gỗ,

Bậc trí nhiếp tự thân.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 36

 

81. “Như đá tảng kiên cố,

Không gió nào giao động,

Cũng vậy, giữa khen chê,

Người trí không giao động.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 37

 

82. “Như hồ nước sâu thẳm,

Trong sáng, không khuấy đục,

Cũng vậy, nghe chánh pháp,

Người trí hưởng tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 38

 

83. “Người hiền bỏ tất cả,

Người lành không bàn dục,

Dầu cảm thọ lạc khổ,

Bậc trí không vui buồn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 39

 

84. “Không vì mình, vì người.

Không cầu được con cái,

Không tài sản quốc độ,

Không cầu mình thành tựu,

Với việc làm phi pháp.

Vị ấy thật trì giới,

Có trí tuệ, đúng pháp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 40

 

85. “Ít người giữa nhân loại,

Ðến được bờ bên kia

Còn số người còn lại,

Xuôi ngược chạy bờ này.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 41

 

86. “Những ai hành trì pháp,

Theo chánh pháp khéo dạy,

Sẽ đến bờ bên kia,

Vượt ma lực khó thoát.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 42

 

87.Kẻ trí bỏ pháp đen,

Tu tập theo pháp trắng.

Bỏ nhà, sống không nhà,

Sống viễn ly khổ lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 43

 

88. “Hãy cầu vui Niết Bàn,

Bỏ dục, không sở hữu,

Kẻ trí tự rửa sạch,

Cấu uế từ nội tâm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 44

 

89. “Những ai với chánh tâm,

Khéo tu tập giác chi,

Từ bỏ mọi ái nhiễm,

Hoan hỷ không chấp thủ.

Không lậu hoặc, sáng chói,

Sống tịch tịnh ở đời.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 45

 

—o0o—

Phẩm A La Hán

90. “Ðích đã đến, không sầu,

Giải thoát ngoài tất cả,

Ðoạn trừ mọi buộc ràng,

Vị ấy không nhiệt não.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 46

 

91. “Tự sách tấn, chánh niệm,

Không thích cư xá nào,

Như ngỗng trời rời ao,

Bỏ sau mọi trú ẩn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 47

 

92. “Tài sản không chất chứa,

Ăn uống biết liễu tri,

Tự tại trong hành xứ,

“Không vô tướng, giải thoát,”

Như chim giữa hư không,

Hướng chúng đi khó tìm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 48

 

93. “Ai lậu hoặc đoạn sạch,

Ăn uống không tham đắm,

Tự tại trong hành xứ,

“Không, vô tướng giải thoát.”

Như chim giữa hư không,

Dấu chân thật khó tìm. ”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 49

 

94. “Ai nhiếp phục các căn,

Như đánh xe điều ngự,

Mạn trừ, lậu hoặc dứt,

Người vậy, Chư Thiên mến.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 50

 

95. “Như đất, không hiềm hận,

Như cột trụ, kiên trì,

Như hồ, không bùn nhơ,

Không luân hồi, vị ấy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 51

 

96. “Người tâm ý an tịnh,

Lời an, nghiệp cũng an,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Tịnh lạc là vị ấy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 52

 

97. “Không tin, hiểu vô vi.

Người cắt mọi hệ lụy

Cơ hội tận, xả ly

Vị ấy thật tối thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 53

 

98. “Làng mạc hay rừng núi

Thung lũng hay đồi cao,

La Hán trú chỗ nào,

Ðất ấy thật khả ái “.

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 54

 

99. “Khả ái thay núi rừng,

Chỗ người phàm không ưa,

Vị ly tham ưa thích,

Vì không tìm dục lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 55

 

—o0o—-

Phẩm Ngàn

100. “Dầu nói ngàn ngàn lời,

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu nghĩa,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 56

 

101. “Dầu nói ngàn câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn nói một câu,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 57

 

102 “Dầu nói trăm câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu pháp,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 58

 

103. “Dầu tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch,

Tự thắng mình tốt hơn,

Thật chiến thắng tối thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 59

 

104. “Tự thắng, tốt đẹp hơn,

Hơn chiến thắng người khác.

Người khéo điều phục mình,

Thường sống tự chế ngự.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 60

 

105. “Dầu Thiên Thần, Thát Bà,

Dầu Ma vương, Phạm Thiên

Không ai chiến thắng nổi,

Người tự thắng như vậy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 61

 

106. “Tháng tháng bỏ ngàn vàng,

Tế tự cả trăm năm,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cùng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 62

 

107. “Dầu trải một trăm năm,

Thờ lửa tại rừng sâu,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cúng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 63

 

108. “Suốt năm cúng tế vật,

Ðể cầu phước ở đời.

Không bằng một phần tư

Kính lễ bậc chánh trực.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 64

 

109. “Thường tôn trọng, kính lễ

Bậc kỳ lão trưởng thượng,

Bốn pháp được tăng trưởng:

Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 65

 

110.Dầu sống một trăm năm

Ác giới, không thiền định,

Tốt hơn sống một ngày,

Trì giới, tu thiền định.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 66

 

111. “Ai sống một trăm năm,

Ác tuệ, không thiền định.

Tốt hơn sống một ngày,

Có tuệ, tu thiền định.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 67

 

112 “Ai sống một trăm năm,

Lười nhác không tinh tấn,

Tốt hơn sống một ngày

Tinh tấn tận sức mình.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 68

 

113. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sinh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sinh diệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 69

 

114. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy câu bất tử,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được câu bất tử.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 70

 

115. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp tối thượng,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp tối thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 71

 

—o0o—

Phẩm Ác

116. “Hãy gấp làm điều lành,

Ngăn tâm làm điều ác.

Ai chậm làm việc lành,

Ý ưa thích việc ác.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 72

 

117. “Nếu người làm điều ác,

Chớ tiếp tục làm thêm.

Chớ ước muốn điều ác,

Chứa ác, tất chịu khổ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 73

 

118. “Nếu người làm điều thiện,

Nên tiếp tục làm thêm.

Hãy ước muốn điều thiện,

Chứa thiện, được an lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 74

 

119. “Người ác thấy là hiền.

Khi ác chưa chín muồi,

Khi ác nghiệp chín muồi,

Người ác mới thấy ác.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 75

 

120. “Người hiền thấy là ác,

Khi thiện chưa chín muồi.

Khi thiện được chín muồi,

Người hiền thấy là thiện.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 76

 

121. “Chớ chê khinh điều ác,

Cho rằng “chưa đến mình”,

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 77

 

122. “Chớ chê khinh điều thiện

Cho rằng “Chưa đến mình”

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người trí chứa đầy thiện,

Do chất chứa dần dần.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 78

 

123. “Ít bạn đường, nhiều tiền,

Người buôn tránh đường hiểm.

Muốn sống, tránh thuốc độc,

Hãy tránh ác như vậy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 79

 

124. “Bàn tay không thương tích,

Có thể cầm thuốc độc.

Không thương tích, tránh độc,

Không làm, không có ác.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 80

 

125. “Hại người không ác tâm,

Người thanh tịnh, không uế,

Tội ác đến kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 81

 

126. “Một số sinh bào thai,

Kẻ ác sinh địa ngục,

Người thiện lên cõi trời,

Vô lậu chứng Niết Bàn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 82

 

127. “Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 83

 

128. “Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn khỏi tay thần chết.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 84

 

—o0o—

Phẩm Hình Phạt

129. “Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người sợ tử vong.

Lấy mình làm ví dụ

Không giết, không bảo giết.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 85

 

130. “Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người thích sống còn;

Lấy mình làm ví dụ,

Không giết, không bảo giết.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 86

 

131. “Chúng sanh cầu an lạc,

Ai dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau không được lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 87

 

132. “Chúng sanh cầu an lạc,

Không dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau được hưởng lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 88

 

133. “Chớ nói lời ác độc,

Nói ác, bị nói lại,

Khổ thay lời phẩn nộ,

Ðao trượng phản chạm mình.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 89

 

134. “Nếu tự mình yên lặng,

Như chiếc chuông bị bể.

Ngươi đã chứng Niết Bàn

Ngươi không còn phẩn nộ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 90

 

135. “Với gậy người chăn bò,

Lùa bò ra bãi cỏ;

Cũng vậy, già và chết,

Lùa người đến mạng chung.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 91

 

136. “Người ngu làm điều ác,

Không ý thức việc làm.

Do tự nghiệp, người ngu

Bị nung nấu, như lửa.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 92

 

137. “Dùng trượng phạt không trượng,

Làm ác người không ác.

Trong mười loại khổ đau,

Chịu gấp một loại khổ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 93

 

138. “Hoặc khổ thọ khốc liệt,

Thân thể bị thương vong,

Hoặc thọ bệnh kịch liệt,

Hay loạn ý tán tâm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 94

 

139. “Hoặc tai họa từ vua,

Hay bị vu trọng tội;

Bà con phải ly tán,

Tài sản bị nát tan.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 95

 

140. “Hoặc phòng ốc nhà cửa

Bị hỏa tai thiêu đốt.

Khi thân hoại mạng chung,

Ác tuệ sanh địa ngục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 96

 

141. “Không phải sống lõa thể

Bện tóc, tro trét mình,

Tuyệt thực, lăn trên đất,

Sống nhớp, siêng ngồi xổm,

Làm con người được sạch,

Nếu không trừ nghi hoặc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 97

 

142 “Ai sống tự trang sức,

Nhưng an tịnh, nhiếp phục,

Sống kiên trì, phạm hạnh,

Không hại mọi sinh linh,

Vị ấy là phạm chí,

Hay sa môn, khất sĩ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 98

 

143. “Thật khó tìm ở đời,

Người biết thẹn, tự chế,

Biết tránh né chỉ trích

Như ngựa hiền tránh roi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 99

 

144. “Như ngựa hiền chạm roi,

Hãy nhiệt tâm, hăng hái,

Với tín, giới, tinh tấn,

Thiền định cùng trạch pháp.

Minh hạnh đủ, chánh niệm,

Ðoạn khổ này vô lượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 100

 

145. “Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn ván,

Bậc tự điều, điều thân.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 101

 

—o0o—

Phẩm Già

146. “Cười gì, hân hoan gì,

Khi đời mãi bị thiêu?

Bị tối tăm bao trùm,

Sao không tìm ngọn đèn?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 102

 

147. “Hãy xem bong bóng đẹp,

Chỗ chất chứa vết thương,

Bệnh hoạn nhiều suy tư,

Thật không gì trường cửu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 103

 

148. “Sắc này bị suy già,

Ổ tật bệnh, mỏng manh,

Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,

Chết chấm dứt mạng sống.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 104

 

149. “Như trái bầu mù thu,

Bị vất bỏ quăng đi,

Nhóm xương trắng bồ câu,

Thấy chúng còn vui gì?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 105

 

150. “Thành này làm bằng xương,

Quét tô bằng thịt máu,

Ở đây già và chết,

Mạn, lừa đảo chất chứa.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 106

 

151. “Xe vua đẹp cũng già.

Thân này rồi sẽ già,

Pháp bậc thiện, không già.

Như vậy bậc chí thiện

Nói lên cho bậc thiện.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 107

 

152. “Người ít nghe kém học,

Lớn già như trâu đực.

Thịt nó tuy lớn lên,

Nhưng tuệ không tăng trưởng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 108

 

153. “Lang thang bao kiếp sống

Ta tìm nhưng chẳng gặp,

Người xây dựng nhà này,

Khổ thay, phải tái sanh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 109

 

154. “Ôi! Người làm nhà kia

Nay ta đã thấy ngươi!

Ngươi không làm nhà nữa.

Ðòn tay ngươi bị gẫy,

Kèo cột ngươi bị tan

Tâm ta đạt tịch diệt,

Tham ái thảy tiêu vong.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 110

 

155. “Lúc trẻ, không phạm hạnh,

Không tìm kiếm bạc tiền.

Như cò già bên ao,

Ủ rũ, không tôm cá.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 111

 

156. “Lúc trẻ không phạm hạnh,

Không tìm kiếm bạc tiền;

Như cây cung bị gẫy,

Thở than những ngày qua.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 112

 

—o0o—Phẩm Tự Ngã—o0o—

157. “Nếu biết yêu tự ngã,

Phải khéo bảo vệ mình,

Người trí trong ba canh,

Phải luôn luôn tỉnh thức.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 113

 

158. “Trước hết tự đặt mình,

Vào những gì thích đáng.

Sau mới giáo hóa người,

Người trí khỏi bị nhiễm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 114

 

159. “Hãy tự làm cho mình,

Như điều mình dạy người.

Khéo tự điều, điều người,

Khó thay, tự điều phục!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 115

 

160. “Tự mình y chỉ mình,

Nào có y chỉ khác.

Nhờ khéo điều phục mình,

Ðược y chỉ khó được.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 116

 

161. “Ðiều ác tự mình làm,

Tự mình sanh, mình tạo.

Nghiền nát kẻ ngu si,

Như kim cương, ngọc báu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 117

 

162. “Phá giới quá trầm trọng,

Như dây leo bám cây

Gieo hại cho tự thân,

Như kẻ thù mong ước.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 118

 

163. “Dễ làm các điều ác,

Dễ làm tự hại mình.

Còn việc lành, việc tốt,

Thật tối thượng khó làm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 119

 

164. “Kẻ ngu si miệt thị,

Giáo pháp bậc La Hán,

Bậc Thánh, bậc chánh mạng.

Chính do ác kiến này,

Như quả loại cây lau

Mang quả tự hoại diệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 120

 

165. “Tự mình, làm điều ác,

Tự mình làm nhiễm ô,

Tự mình không làm ác,

Tự mình làm thanh tịnh.

Tịnh, không tịnh tự mình,

Không ai thanh tịnh ai!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 121

 

166. “Chớ theo pháp hạ liệt.

Chớ sống mặc, buông lung;

Chớ tin theo tà kiến,

Chớ tăng trưởng tục trần.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 122

 

—o0o—Phẩm Thế Gian—o0o—

167. “Dầu lợi người bao nhiêu,

Chớ quên phần tư lợi,

Nhờ thắng trí tư lợi.

Hãy chuyên tâm lợi mình.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 123

 

168. “Nỗ lực, chớ phóng dật!

Hãy sống theo chánh hạnh;

Người chánh hạnh hưởng lạc,

Cả đời này, đời sau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 124

 

169. “Hãy khéo sống chánh hạnh,

Chớ sống theo tà hạnh!

Người chánh hạnh hưởng lạc,

Cả đời này, đời sau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 125

 

170. “Hãy nhìn như bọt nước,

Hãy nhìn như cảnh huyễn!

Quán nhìn đời như vậy,

Thần chết không bắt gặp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 126

 

171. “Hãy đến nhìn đời này,

Như xe vua lộng lẫy,

Người ngu mới tham đắm,

Kẻ trí nào đắm say.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 127

 

172. “Ai sống trước buông lung,

Sau sống không phóng dật,

Chói sáng rực đời này.

Như trăng thoát mây che.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 128

 

173. “Ai dùng các hạnh lành,

Làm xóa mờ nghiệp ác,

Chói sáng rực đời này,

Như trăng thoát mây che.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 129

 

174. “Ðời này thật mù quáng,

Ít kẻ thấy rõ ràng.

Như chim thoát khỏi lưới,

Rất ít đi thiên giới.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 130

 

175. “Như chim thiên nga bay,

Thần thông liệng giữa trời;

Chiến thắng ma, ma quân,

Kẻ trí thoát đời này.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 131

 

176. “Ai vi phạm một pháp,

Ai nói lời vọng ngữ,

Ai bác bỏ đời sau,

Không ác nào không làm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 132

 

177. “Keo kiết không sanh thiên,

Kẻ ngu ghét bố thí,

Người trí thích bố thí,

Ðời sau, được hưởng lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 133

 

178. “Hơn thống lãnh cõi đất,

Hơn được sanh cõi trời,

Hơn chủ trì vũ trụ,

Quả Dự Lưu tối thắng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 134

 

—o0o—

Phẩm Phật Đà

179. “Vị chiến thắng không bại,

Vị bước đi trên đời,

Không dấu tích chiến thắng,

Phật giới rộng mênh mông,

Ai dùng chân theo dõi

Bậc không để dấu tích?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 135

 

180. “Ai giải tỏa lưới tham,

Ái phược hết dắt dẫn,

Phật giới rộng mênh mông,

Ai dùng chân theo dõi,

Bậc không để dấu tích?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 136

 

181. “Người trí chuyên thiền định,

Thích an tịnh viễn ly,

Chư thiên đều ái kính,

Bậc chánh giác, chánh niệm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 137

 

182. “Khó thay, được làm người,

Khó thay, được sống còn,

Khó thay, nghe diệu pháp,

Khó thay, Phật ra đời!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 138

 

183. “Không làm mọi điều ác.

Thành tựu các hạnh lành,

Tâm ý giữ trong sạch,

Chính lời chư Phật dạy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 139

 

184. “Chư Phật thường giảng dạy;

Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,

Niết bàn, quả tối thượng;

Xuất gia không phá người;

Sa môn không hại người.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 140

 

185. “Không phỉ báng, phá hoại,

Hộ trì giới căn bản,

Ăn uống có tiết độ,

Sàng tọa chỗ nhàn tịnh

Chuyên chú tăng thượng tâm,

Chính lời chư Phật dạy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 141

 

186. “Dầu mưa bằng tiền vàng,

Các dục khó thỏa mãn.

Dục đắng nhiều ngọt ít,

Biết vậy là bậc trí.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 142

 

187. “Ðệ tử bậc chánh giác,

Không tìm cầu dục lạc,

Dầu là dục chư thiên,

Chỉ ưa thích ái diệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 143

 

188. “Loài người sợ hoảng hốt,

Tìm nhiều chỗ quy y,

Hoặc rừng rậm, núi non,

Hoặc vườn cây, đền tháp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 144

 

189. “Quy y ấy không ổn,

Không quy y tối thượng.

Quy y các chỗ ấy,

Không thoát mọi khổ đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 145

 

190. “Ai quy y Ðức Phật,

Chánh pháp và chư tăng,

Ai dùng chánh tri kiến,

Thấy được bốn Thánh đế.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 146

 

191. “Thấy khổ và khổ tập,

Thấy sự khổ vượt qua,

Thấy đường Thánh tám ngành,

Ðưa đến khổ não tận.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 147

 

192. “Thật quy y an ổn,

Thật quy y tối thượng,

Có quy y như vậy,

Mới thoát mọi khổ đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 148

 

193. “Khó gặp bậc thánh nhơn,

Không phải đâu cũng có.

Chỗ nào bậc trí sanh,

Gia đình tất an lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 149

 

194. “Vui thay, Phật ra đời!

Vui thay, Pháp được giảng!

Vui thay, Tăng hòa hợp!

Hòa hợp tu, vui thay!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 150

 

195. “Cúng dường bậc đáng cúng,

Chư Phật hoặc đệ tử,

Các bậc vượt hý luận,

Ðoạn diệt mọi sầu bi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 151

 

196. “Cúng dường bậc như vậy,

Tịch tịnh, không sợ hãi,

Các công đức như vậy,

Không ai ước lường được.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 152

 

—o0o—

Phẩm An Lạc

197. “Vui thay, chúng ta sống,

Không hận, giữa hận thù!

Giữa những người thù hận,

Ta sống, không hận thù!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 153

 

198. “Vui thay, chúng ta sống,

Không bệnh, giữa ốm đau!

Giữa những người bệnh hoạn,

Ta sống, không ốm đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 154

 

199. “Vui thay, chúng ta sống,

Không rộn giữa rộn ràng;

Giữa những người rộn ràng,

Ta sống, không rộn ràng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 155

 

200. “Vui thay chúng ta sống,

Không gì, gọi của ta.

Ta sẽ hưởng hỷ lạc,

Như chư thiên Quang Âm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 156

 

201. “Chiến thắng sinh thù oán,

Thất bại chịu khổ đau,

Sống tịch tịnh an lạc.

Bỏ sau mọi thắng bại.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 157

 

202. “Lửa nào sánh lửa tham?

Ác nào bằng sân hận?

Khổ nào sánh khổ uẩn,

Lạc nào bằng tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 158

 

203. “Ðói ăn, bệnh tối thượng,

Các hành, khổ tối thượng,

Hiểu như thực là vậy,

Niết Bàn, lạc tối thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 159

 

204 “Không bệnh, lợi tối thượng,

Biết đủ, tiền tối thượng,

Thành tín đối với nhau,

Là bà con tối thượng.

Niết Bàn, lạc tối thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 160

 

205. “Ðã nếm vị độc cư,

Ðược hưởng vị nhàn tịnh,

Không sợ hải, không ác,

Nếm được vị pháp hỷ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 161

 

206. “Lành thay, thấy thánh nhân,

Sống chung thường hưởng lạc.

Không thấy những người ngu,

Thường thường được an lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 162

 

207. “Sống chung với người ngu,

Lâu dài bị lo buồn.

Khổ thay gần người ngu,

Như thường sống kẻ thù.

Vui thay, gần người trí,

Như chung sống bà con.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 163

 

208. “Bậc hiền sĩ, trí tuệ

Bậc nghe nhiều, trì giới,

Bậc tự chế, Thánh nhân;

Hãy gần gũi, thân cận

Thiện nhân, trí giả ấy,

Như trăng theo đường sao.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 164

 

—o0o—

Phẩm Hỷ Ái

209. “Tự chuyên, không đáng chuyên

Không chuyên, việc đáng chuyên.

Bỏ đích, theo hỷ ái,

Ganh tị bậc tự chuyên.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 165

 

210. “Chớ gần gũi người yêu,

Trọn đời xa kẻ ghét.

Yêu không gặp là khổ,

Oán phải gặp cũng đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 166

 

211. “Do vậy chớ yêu ai,

Ái biệt ly là ác;

Những ai không yêu ghét,

Không thể có buộc ràng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 167

 

212. “Do ái sinh sầu ưu,

Do ái sinh sợ hãi,

Ai thoát khỏi tham ái,

Không sầu, đâu sợ hãi?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 168

 

213. “Ái luyến sinh sầu ưu,

Ái luyến sinh sợ hãi.

Ai giải thoát ái luyến

Không sầu, đâu sợ hãi?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 169

 

214. “Hỷ ái sinh sầu ưu,

Hỷ ái sinh sợ hãi.

Ai giải thoát hỷ ái,

Không sầu, đâu sợ hãi?

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 170

 

215. “Dục ái sinh sầu ưu,

Dục ái sinh sợ hãi,

Ai thoát khỏi dục ái,

Không sầu, đâu sợ hãi?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 171

 

216. “Tham ái sinh sầu ưu,

Tham ái sinh sợ hãi.

Ai thoát khỏi tham ái,

Không sầu, đâu sợ hãi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 172

 

217. “Ðủ giới đức, chánh kiến;

Trú pháp, chứng chân lý,

Tự làm công việc mình,

Ðược quần chúng ái kính.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 173

 

218. “Ước vọng pháp ly ngôn

Ý cảm xúc thượng quả

Tâm thoát ly ác dục,

Xứng gọi bậc Thượng Lưu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 174

 

219. “Khách lâu ngày ly hương,

An toàn từ xa về,

Bà con cùng thân hữu,

Hân hoan đón chào mừng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 175

 

220. “Cũng vậy các phước nghiệp,

Ðón chào người làm lành,

Ðời này đến đời kia.

Như thân nhân, đón chào.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 176

 

—o0o—

Phẩm Phẫn Nộ

221. “Bỏ phẫn nộ, ly mạn,

Vượt qua mọi kiết sử,

Không chấp trước danh sắc.

Khổ không theo vô sản.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 177

 

222. “Ai chận được phẫn nộ,

Như dừng xe đang lăn,

Ta gọi người đánh xe,

Kẻ khác, cầm cương hờ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 178

 

223. “Lấy không giận thắng giận,

Lấy thiện thắng không thiện,

Lấy thí thắng xan tham,

Lấy chơn thắng hư ngụy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 179

 

224. “Nói thật, không phẫn nộ,

Của ít, thí người xin,

Nhờ ba việc lành này,

Người đến gần thiên giới.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 180

 

225. “Bậc hiền không hại ai,

Thân thường được chế ngự,

Ðạt được cảnh bất tử,

Ðến đây, không ưu sầu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 181

 

226. “Những người thường giác tỉnh,

Ngày đêm siêng tu học,

Chuyên tâm hướng Niết Bàn,

Mọi lậu hoặc được tiêu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 182

 

227. “A-tu-la, nên biết,

Xưa vậy, nay cũng vậy,

Ngồi im, bị người chê,

Nói nhiều bị người chê.

Nói vừa phải, bị chê.

Làm người không bị chê,

Thật khó tìm ở đời.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 183

 

228. “Xưa, vị lai, và nay,

Ðâu có sự kiện này,

Người hoàn toàn bị chê,

Người trọn vẹn được khen.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 184

 

229. “Sáng sáng, thẩm xét kỹ.

Bậc có trí tán thán.

Bậc trí không tỳ vết,

Ðầy đủ giới định tuệ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 185

 

230. “Hạnh sáng như vàng ròng,

Ai dám chê vị ấy?

Chư thiên phải khen thưởng,

Phạm Thiên cũng tán dương “.

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 186

 

231. “Giữ thân đừng phẫn nộ,

Phòng thân khéo bảo vệ,

Từ bỏ thân làm ác,

Với thân làm hạnh lành.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 187

 

232 “Giữ lời đừng phẫn nộ,

Phòng lời, khéo bảo vệ,

Từ bỏ lời thô ác,

Với lời, nói điều lành.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 188

 

233. “Giữ ý đừng phẫn nộ,

Phòng ý, khéo bảo vệ,

Từ bỏ ý nghĩ ác,

Với ý, nghĩ hạnh lành.’

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 189

 

234. “Bậc trí bảo vệ thân,

Bảo vệ luôn lời nói

Bảo vệ cả tâm tư,

Ba nghiệp khéo bảo vệ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 190

 

—o0o—

Phẩm Cấu Uế

235. “Ngươi nay giống lá héo,

Diêm sứ đang chờ ngươi,

Ngươi đứng trước cửa chết,

Ðường trường thiếu tư lương.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 191

 

236. “Hãy tự làm hòn đảo,

Tinh cần gấp, sáng suốt.

Trừ cấu uế, thanh tịnh,

Ðến Thánh địa chư Thiên.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 192

 

237. “Ðời ngươi nay sắp tàn,

Tiến gần đến Diêm Vương.

Giữa đường không nơi nghỉ,

Ðường trường thiếu tư lương.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 193

 

238. “Hãy tự làm hòn đảo,

Tinh cần gấp sáng suốt.

Trừ cấu uế, thanh tịnh,

Chẳng trở lại sanh già.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 194

 

239. “Bậc trí theo tuần tự.

Từng sát na trừ dần.

Như thợ vàng lọc bụi

Trừ cấu uế nơi mình.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 195

 

240. “Như sét từ sắt sanh,

Sắt sanh lại ăn sắt,

Cũng vậy, quá lợi dưỡng

Tự nghiệp dẫn cõi ác.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 196

 

241. “Không tụng làm nhớp kinh,

Không đứng dậy, bẩn nhà,

Biếng nhác làm nhơ sắc,

Phóng dật uế người canh”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 197

 

242. “Tà hạnh nhơ đàn bà,

Xan tham nhớp kẻ thí,

Ác pháp là vết nhơ,

Ðời này và đời sau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 198

 

243. “Trong hàng cấu uế ấy,

Vô minh, nhơ tối thượng,

Ðoạn nhơ ấy, tỷ kheo,

Thành bậc không uế nhiễm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 199

 

244. “Dễ thay, sống không hổ

Sống lỗ mãng như quạ,

Sống công kích huênh hoang,

Sống liều lĩnh, nhiễm ô.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 200

 

245. “Khó thay, sống xấu hổ,

Thường thường cầu thanh tịnh.

Sống vô tư, khiêm tốn,

Trong sạch và sáng suốt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 201

 

246. “Ai ở đời sát sinh,

Nói láo không chân thật,

Ở đời lấy không cho,

Qua lại với vợ người.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 202

 

247. “Uống rượu men, rượu nấu,

Người sống đam mê vậy,

Chính ngay tại đời này,

Tự đào bới gốc mình.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 203

 

248. “Vậy người, hãy nên biết,

Không chế ngự là ác.

Chớ để tham phi pháp,

Làm người đau khổ dài.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 204

 

249. “Do tín tâm, hỷ tâm

Loài người mới bố thí.

Ở đây ai bất mãn

Người khác được ăn uống,

Người ấy ngày hoặc đêm,

Không đạt được tâm định?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 205

 

250. “Ai cắt được, phá được,

Tận gốc nhổ tâm ấy.

Người ấy ngày hoặc đêm,

Ðạt được tâm thiền định.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 206

 

251. “Lửa nào bằng lửa tham!

Chấp nào bằng sân hận!

Lưới nào bằng lưới si!

Sông nào bằng sông ái! ”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 207

 

252. “Dễ thay thấy lỗi người,

Lỗi mình thấy mới khó.

Lỗi người ta phanh tìm,

Như sàng trấu trong gạo,

Còn lỗi mình, che đậy,

Như kẻ gian dấu bài.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 208

 

253. “Ai thấy lỗi của người,

Thường sanh lòng chỉ trích,

Người ấy lậu hoặc tăng,

Rất xa lậu hoặc diệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 209

 

254. “Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không sa môn,

Chúng sanh thích hý luận,

Như lai, hý luận trừ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 210

 

255. “Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không sa môn.

Các hành không thường trú,

Chư Phật không giao động.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 211

 

—o0o—

Phẩm Pháp Trụ

256. “Ngươi đâu phải pháp trụ,

Xử sự quá chuyên chế,

Bậc trí cần phân biệt

Cả hai chánh và tà!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 212

 

257. “Không chuyên chế, đúng pháp,

Công bằng, dắt dẫn người,

Bậc trí sống đúng pháp,

Thật xứng danh pháp trụ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 213

 

258. “Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh bậc trí.

An ổn, không oán sợ.

Thật đáng gọi bậc trí.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 214

 

259. Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh trì pháp,

Những ai tuy nghe ít,

Nhưng thân hành đúng pháp,

Không phóng túng chánh pháp,

Mới xứng danh trì pháp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 215

 

260. Không phải là trưởng lão,

Dầu cho có bạc đầu.

Người chỉ tuổi tác cao,

Ðược gọi là: “Lão ngu.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 216

 

261. “Ai chân thật, đúng pháp,

Không hại, biết chế phục,

Bậc trí không cấu uế,

Mới xứng danh Trưởng Lão.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 217

 

262. “Không phải nói lưu loát,

Không phải sắc mặt đẹp,

Thành được người lương thiện,

Nếu ganh, tham, dối trá.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 218

 

263. “Ai cắt được, phá được

Tận gốc nhổ tâm ấy

Người trí ấy diệt sân,

Ðược gọi người hiền thiện.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 219

 

264. “Ðầu trọc, không sa môn

Nếu phóng túng, nói láo.

Ai còn đầy dục tham,

Sao được gọi sa môn?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 220

 

265. “Ai lắng dịu hoàn toàn,

Các điều ác lớn nhỏ,

Vì lắng dịu ác pháp,

Ðược gọi là Sa môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 221

 

266. ” Chỉ khất thực nhờ người,

Ðâu phải là tỷ kheo!

Phải theo pháp toàn diện,

Khất sĩ không, không đủ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 222

 

267. ” Ai vượt qua thiện ác,

Chuyên sống đời Phạm Hạnh,

Sống thẩm sát ở đời,

Mới xứng danh tỷ kheo.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 223

 

268. “Im lặng nhưng ngu si,

Ðâu được gọi ẩn sĩ?

Như người cầm cán cân,

Bậc trí chọn điều lành.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 224

 

269. ” Từ bỏ các ác pháp,

Mới thật là ẩn sĩ.

Ai thật hiểu hai đời

Mới được gọi ẩn sĩ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 225

 

270. ” Còn sát hại sinh linh,

Ðâu được gọi Hiền thánh.

Không hại mọi hữu tình,

Mới được gọi Hiền Thánh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 226

 

271. “Chẳng phải chỉ giới cấm

Cũng không phải học nhiều,

Chẳng phải chứng thiền định,

Sống thanh vắng một mình.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 227

 

272. “Ta hưởng an ổn lạc,

Phàm phu chưa hưởng được.

Tỷ kheo, chớ tự tin

Khi lậu hoặc chưa diệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 228

 

—o0o—Phẩm Đạo—o0o—

273. “Tám chánh, đường thù thắng,

Bốn câu, lý thù thắng.

Ly tham, pháp thù thắng,

Giữa các loài hai chân,

Pháp nhãn, người thù thắng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 229

 

274. “Ðường này, không đường khác

Ðưa đến kiến thanh tịnh.

Nếu ngươi theo đường này,

Ma quân sẽ mê loạn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 230

 

275. “Nếu người theo đường này,

Ðau khổ được đoạn tận.

Ta dạy người con đường.

Với trí, gai chướng diệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 231

 

276. “Người hãy nhiệt tình làm,

Như Lai chỉ thuyết dạy.

Người hành trì thiền định

Thoát trói buộc Ác ma.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 232

 

277. “Tất cả hành vô thường ”

Với Tuệ, quán thấy vậy

Ðau khổ được nhàm chán;

Chính con đường thanh tịnh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 233

 

278. “Tất cả hành khổ đau

Với Tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán;

Chính con đường thanh tịnh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 234

 

279. “Tất cả pháp vô ngã,

Với Tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 235

 

280. “Khi cần, không nỗ lực,

Tuy trẻ mạnh, nhưng lười

Chí nhu nhược, biếng nhác.

Với trí tuệ thụ động,

Sao tìm được chánh đạo?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 236

 

281. “Lời nói được thận trọng,

Tâm tư khéo hộ phòng,

Thân chớ làm điều ác,

Hãy giữ ba nghiệp tịnh,

Chứng đạo Thánh nhân dạy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 237

 

282. “Tu Thiền, trí tuệ sanh,

Bỏ Thiền, trí tuệ diệt.

Biết con đường hai ngả

Ðưa đến hữu, phi hữu,

Hãy tự mình nỗ lực,

Khiến trí tuệ tăng trưởng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 238

 

283. “Ðốn rừng không đốn cây

Từ rừng, sinh sợ hãi;

Ðốn rừng (1) và ái dục,

Tỷ kheo, hãy tịch tịnh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 239

 

284. “Khi nào chưa cắt tiệt,

Ái dục giữa gái trai,

Tâm ý vẫn buộc ràng,

Như bò con vú mẹ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 240

 

285. “Tự cắt dây ái dục,

Như tay bẻ sen thu,

Hãy tu đạo tịch tịnh,

Niết-Bàn, Thiện Thệ dạy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 241

 

286. “Mùa mưa ta ở đây

Ðông, hạ cũng ở đây,

Người ngu tâm tưởng vậy,

Không tự giác hiểm nguy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 242

 

287. “Người tâm ý đắm say

Con cái và súc vật,

Tử thần bắt người ấy,

Như lụt trôi làng ngủ. ”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 243

 

288. “Một khi tử thần đến,

Không có con che chở,

Không cha, không bà con,

Không thân thích che chở.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 244

 

289. “Biết rõ ý nghĩa này,

Bậc trí lo trì giới,

Mau lẹ làm thanh tịnh,

Con đường đến Niết-Bàn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 245

 

Chú thích:

(1) Dục vọng

—o0o—

Phẩm Tạp Lục

290. “Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,

Thấy được lạc lớn hơn,

Bậc trí bỏ lạc nhỏ,

Thấy được lạc lớn hơn.”

291. “Gieo khổ đau cho người,

Mong cầu lạc cho mình,

Bị hận thù buộc ràng

Không sao thoát hận thù.”

292. “Việc đáng làm, không làm,

Không đáng làm, lại làm,

Người ngạo mạn, phóng dật,

Lậu hoặc ắt tăng trưởng.”

293. “Người siêng năng cần mẫn,

Thường thường quán thân niệm,

Không làm việc không đáng,

Gắng làm việc đáng làm,

Người tư niệm giác tỉnh,

Lậu hoặc được tiêu trừ.”

294. “Sau khi giết mẹ cha,

Giết hai Vua Sát lỵ,

Giết vương quốc, quần thần

Vô ưu, phạm chí sống.”

295. “Sau khi giết mẹ cha,

Hai vua Bà-la-môn,

Giết hổ tướng thứ năm

Vô ưu, phạm chí sống.”

296. “Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng Phật Ðà thường niệm.”

297. “Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng Chánh Pháp thường niệm”

298. “Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng Tăng Già thường niệm.”

299. “Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng sắc thân thường niệm.”

300. “Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Ý vui niềm bất hại.”

301. “Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Ý vui tu thiền quán.”

302. “Vui hạnh xuất gia khó,

Tại gia sinh hoạt khó,

Sống bạn không đồng, khổ,

Trôi lăn luân hồi, khổ,

Vậy chớ sống luân hồi,

Chớ chạy theo đau khổ.”

303. “Tín tâm, sống giới hạnh

Ðủ danh xưng tài sản,

Chỗ nào người ấy đến,

Chỗ ấy được cung kính.”

304. “Người lành dầu ở xa

Sáng tỏ như núi tuyết,

Người ác dầu ở gần

Như tên bắn đêm đen.”

305. “Ai ngồi nằm một mình.

Ðộc hành không buồn chán,

Tự điều phục một mình

Sống thoải mái rừng sâu.”

—o0o—

Phẩm Địa Ngục

306. “Nói láo đọa địa ngục

Có làm nói không làm,

Cả hai chết đồng đẳng,

Làm người, nghiệp hạ liệt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 246

 

307. “Nhiều người khoác cà sa,

Ác hạnh không nhiếp phục.

Người ác, do ác hạnh,

Phải sanh cõi Ðịa ngục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 247

 

308. “Tốt hơn nuốt hòn sắt

Cháy đỏ như than hồng,

Hơn ác giới, buông lung

Ăn đồ ăn quốc độ.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 248

 

309. “Bốn nạn chờ đợi người,

Phóng dật theo vợ người;

Mắc họa, ngủ không yên,

Bị chê là thứ ba,

Ðọa địa ngục, thứ bốn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 249

 

310 “Mắc họa, đọa ác thú,

Bị hoảng sợ, ít vui.

Quốc vương phạt trọng hình.

Vậy chớ theo vợ người.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 250

 

311. “Như cỏ sa (1) vụng nắm,

Tất bị họa đứt tay

Hạnh Sa môn tà vạy,

Tất bị đọa địa ngục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 251

 

312. “Sống phóng đãng buông lung,

Theo giới cấm ô nhiễm,

Sống Phạm hạnh đáng nghi

Sao chứng được quả lớn?

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 252

 

313. “Cần phải làm, nên làm

Làm cùng tận khả năng

Xuất gia sống phóng đãng,

Chỉ tăng loạn bụi đời.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 253

 

314. “Ác hạnh không nên làm,

Làm xong, chịu khổ lụy,

Thiện hạnh, ắt nên làm,

Làm xong, không ăn năn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 254

 

315. “Như thành ở biên thùy,

Trong ngoài đều phòng hộ.

Cũng vậy, phòng hộ mình,

Sát na chớ buông lung.

Giây phút qua, sầu muộn.

Khi rơi vào địa ngục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 255

 

316. “Không đáng hổ, lại hổ.

Việc đáng hổ, lại không.

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 256

 

317. “Không đáng sợ, lại sợ,

Ðáng sợ, lại thấy không,

Do chấp nhận tà kiến.

Chúng sanh đi ác thú.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 257

 

318. “Không lỗi, lại thấy lỗi,

Có lỗi, lại thấy không,

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 258

 

319. “Có lỗi, biết có lỗi,

Không lỗi, biết là không,

Do chấp nhận chánh kiến,

Chúng sanh đi cõi lành.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 259

 

—o0o—

Phẩm Voi

320. “Ta như voi giữa trận,

Hứng chịu cung tên rơi,

Chịu đựng mọi phỉ báng.

Ác giới rất nhiều người.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 260

 

321. “Voi luyện, đưa dự hội,

Ngựa luyện, được vua cưỡi,

Người luyện, bậc tối thượng

Chịu đựng mọi phỉ báng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 261

 

322. “Tốt thay, con la thuần,

Thuần chủng loài ngựa Xinh.

Ðại tượng, voi có ngà.

Tự điều mới tối thượng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 262

 

323 “Chẳng phải loài cưỡi ấy,

Ðưa người đến Niết-Bàn,

Chỉ có người tự điều,

Ðến đích, nhờ điều phục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 263

 

324. “Con voi tên Tài Hộ,

Phát dục, khó điều phục,

Trói buộc, không ăn uống.

Voi nhớ đến rừng voi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 264

 

325. “Người ưa ngủ, ăn lớn

Nằm lăn lóc qua lại,

Chẳng khác heo no bụng,

Kẻ ngu nhập thai mãi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 265

 

326. “Trước tâm này buông lung,

Chạy theo ái, dục, lạc.

Nay Ta chánh chế ngự,

Như cầm móc điều voi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 266

 

327. “Hãy vui không phóng dật,

Khéo phòng hộ tâm ý.

Kéo mình khỏi ác đạo,

Như voi bị sa lầy.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 267

 

328. “Nếu được bạn hiền trí

Ðáng sống chung, hạnh lành,

Nhiếp phục mọi hiểm nguy

Hoan hỷ sống chánh niệm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 268

 

329. “Không gặp bạn hiền trí.

Ðáng sống chung, hạnh lành

Như vua bỏ nước bại,

Hãy sống riêng cô độc,

Như voi sống rừng voi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 269

 

330. “Tốt hơn sống một mình,

Không kết bạn người ngu.

Ðộc thân, không ác hạnh

Sống vô tư vô lự,

Như voi sống rừng voi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 270

 

331. “Vui thay, bạn lúc cần!

Vui thay, sống biết đủ,

Vui thay, chết có đức!

Vui thay, mọi khổ đoạn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 271

 

332. “Vui thay, hiếu kính mẹ,

Vui thay, hiếu kính cha,

Vui thay, kính Sa môn,

Vui thay, kính Hiền Thánh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 272

 

333. “Vui thay, già có giới!

Vui thay, tín an trú!

Vui thay, được trí tuệ,

Vui thay, ác không làm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 273

 

—o0o—

Phẩm Tham Ái

334. “Người sống đời phóng dật,

Ái tăng như giây leo.

Nhảy đời này đời khác,

Như vượn tham quả rừng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 274

 

335. “Ai sống trong đời này,

Bị ái dục buộc ràng

Sầu khổ sẽ tăng trưởng,

Như cỏ Bi gặp mưa.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 275

 

336. “Ai sống trong đời này

Ái dục được hàng phục

Sầu rơi khỏi người ấy

Như giọt nước lá sen.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 276

 

337. “Ðây điều lành Ta dạy,

Các người tụ họp đây.

Hãy nhổ tận gốc ái

Như nhổ gốc cỏ Bi.

Chớ để ma phá hoại,

Như giòng nước cỏ lau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 277

 

338. “Như cây bị chặt đốn,

Gốc chưa hại vẫn bền

Ái tùy miên chưa nhổ,

Khổ này vẫn sanh hoài.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 278

 

339. “Ba mươi sáu dòng Ái (1),

Trôi người đốn khả ái.

Các tư tưởng tham ái.

Cuốn trôi người tà kiến.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 279

 

340. “Dòng ái dục chảy khắp,

Như giây leo mọc tràn,

Thấy giây leo vừa sanh,

Với tuệ, hãy đoạn gốc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 280

 

341. “Người đời nhớ ái dục,

Ưa thích các hỷ lạc.

Tuy mong cầu an lạc,

Họ vẫn phải sanh già.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 281

 

342 “Người bị ái buộc ràng,

Vùng vẫy và hoảng sợ,

Như thỏ bị sa lưới.

Họ sanh ái trói buộc,

Chịu khổ đau dài dài.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 282

 

343. “Người bị ái buộc ràng,

Vùng vẫy và hoảng sợ,

Như thỏ bị sa lưới.

Do vậy vị tỷ kheo,

Mong cầu mình ly tham

Nên nhiếp phục ái dục.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 283

 

344. “Lìa rừng lại hướng rừng (2)

Thoát rừng chạy theo rừng.

Nên xem người như vậy,

Ðược thoát khỏi buộc ràng.

Lại chạy theo ràng buộc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 284

 

345. “Sắt, cây, gai trói buộc

Người trí xem chưa bền.

Tham châu báu, trang sức

Tham vọng vợ và con.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 285

 

346. “Người có trí nói rằng:

“Trói buộc này thật bền.

Rì kéo xuống, lún xuống,

Nhưng thật sự khó thoát.

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ dục lạc, không màng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 286

 

347. “Người đắm say ái dục

Tự lao mình xuống dòng

Như nhện sa lưới dệt.

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ mọi khổ, không màng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 287

 

348. “Bỏ quá, hiện, vị lai,

Ðến bờ kia cuộc đời,

Ý giải thoát tất cả,

Chớ vướng lại sanh già.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 288

 

349. “Người tà ý nhiếp phục,

Tham sắc bén nhìn tịnh,

Người ấy ái tăng trưởng,

Làm giây trói mình chặt.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 289

 

350. “Ai vui, an tịnh ý,

Quán bất tịnh, thường niệm,

Người ấy sẽ diệt ái,

Cắt đứt Ma trói buộc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 290

 

351. “Ai tới đích, không sợ,

Ly ái, không nhiễm ô

Nhổ mũi tên sanh tử,

Thân này thân cuối cùng.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 291

 

352. “Ái lìa, không chấp thủ.

Cú pháp khéo biện tài

Thấu suốt từ vô ngại,

Hiểu thứ lớp trước sau.

Thân này thân cuối cùng

Vị như vậy được gọi,

Bậc Ðại trí, đại nhân.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 292

 

353. “Ta hàng phục tất cả,

Ta rõ biết tất cả,

Không bị nhiễm pháp nào.

Ta từ bỏ tất cả

Ái diệt, tự giải thoát.

Ðã tự mình thắng trí,

Ta gọi ai thầy ta?”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 293

 

354. “Pháp thí, thắng mọi thí!

Pháp vị, thắng mọi vị!

Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!

Ái diệt, dứt mọi khổ!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 294

 

355. “Tài sản hại người ngu.

Không người tìm bờ kia

Kẻ ngu vì tham giàu,

Hại mình và hại người.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 295

 

356. “Cỏ làm hại ruộng vườn,

Tham làm hại người đời.

Bố thí người ly tham,

Do vậy được quả lớn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 296

 

357. “Cỏ làm hại ruộng vườn,

Sân làm hại người đời.

Bố thí người ly sân,

Do vậy được quả lớn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 297

 

358. “Cỏ làm hại ruộng vườn,

Si làm hại người đời,

Bố thí người ly si,

Do vậy được quả lớn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 298

 

359. “Cỏ làm hại ruộng vườn,

Dục làm hại người đời.

Bố thí người ly dục,

Do vậy được quả lớn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 299

 

—o0o—

Phẩm Tỷ Kheo

360. “Lành thay, phòng hộ mắt!L

ành thay, phòng hộ tai.

Lành thay, phòng hộ mũi,

Lành thay, phòng hộ lưỡi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 300

 

361. “Lành thay,phòng hộ thân!

Lành thay, phòng hộ lời,

Lành thay, phòng hộ ý.

Lành thay, phòng tất cả.

Tỷ kheo phòng tất cả.

Thoát được mọi khổ đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 301

 

362. “Người chế ngự tay chân,

Chế ngự lời và đầu,

Vui thích nội thiền định.

Ðộc thân, biết vừa đủ,

Thật xứng gọi tỷ kheo.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 302

 

363. “Tỷ kheo chế ngự miệng,

Vừa lời, không cống cao,

Khi trình bày pháp nghĩa,

Lời lẽ dịu ngọt ngào.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 303

 

364. “Vị tỷ kheo thích Pháp,

Mến pháp, suy tư Pháp.

Tâm tư niệm chánh Pháp,

Không rời bỏ chánh Pháp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 304

 

365. “Không khinh điều mình được,

Không ganh người khác được

Tỷ kheo ganh tị người,

Không sao chứng Thiền Ðịnh.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 305

 

366. “Tỷ kheo dầu được ít,

Không khinh điều mình được,

Sống thanh tịnh không nhác,

Chư thiên khen vị này.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 306

 

367. “Hoàn toàn, đối danh sắc,

Không chấp Ta, của Ta.

Không chấp, không sầu não.

Thật xứng danh Tỷ kheo.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 307

 

368. “Tỷ kheo trú từ bi,

Tín thành giáo Pháp Phật,

Chứng cảnh giới tịch tỉnh.

Các hạnh an tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 308

 

369. “Tỷ kheo, tát thuyền này,

Thuyền không, nhẹ đi mau.

Trừ tham, diệt sân hận,

Tất chứng đạt Niết-Bàn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 309

 

370. “Ðoạn năm (1), từ bỏ năm (2),

Tu tập năm (3) tối thượng,

Tỷ kheo cắt năm trói (4),

Xứng danh vượt “bộc lưu” (5).”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 310

 

371. “Tỷ kheo, hãy tu thiền,

Chớ buông lung phóng dật,

Tâm chớ đắm say dục,

Phóng dật, nuốt sắt nóng

Bị đốt, chớ than khổ!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 311

 

372. “Không trí tuệ, không thiền,

Không thiền, không trí tuệ.

Người có thiền có tuệ,

Nhất định gần Niết-Bàn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 312

 

373. “Bước vào ngôi nhà trống,

Tỷ kheo tâm an tịnh,

Thọ hưởng vui siêu nhân

Tịnh quán theo chánh pháp.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 313

 

374. “Người luôn luôn chánh niệm,

Sự sanh diệt các uẩn,

Ðược hoan hỷ, hân hoan,

Chỉ bậc bất tử biết.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 314

 

375. “Ðây Tỷ kheo có trí,

Tụ tập pháp căn bản

Hộ căn, biết vừa đủ,

Giữ gìn căn bản giới,

Thường gần gũi bạn lành,

Sống thanh tịnh tinh cần.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 315

 

376. “Giao thiệp khéo thân thiện,

Cử chỉ mực đoan trang.

Do vậy hưởng vui nhiều,

Sẽ dứt mọi khổ đau.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 316

 

377. “Như hoa Vassikà (6),

Quăng bỏ cánh úa tàn,

Cũng vậy vị Tỷ kheo,

Hãy giải thoát tham sân.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 317

 

378. “Thân tịnh, lời an tịnh,

An tịnh, khéo thiền tịnh.

Tỷ kheo bỏ thế vật,

Xứng danh “bậc tịch tịnh “.

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 318

 

379. “Tự mình chỉ trích mình,

Tự mình dò xét mình,

Tỷ kheo tự phòng hộ

Chánh niệm, trú an lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 319

 

380. “Tự mình y chỉ mình,

Tự mình đi đến mình,

Vậy hãy tự điều phục,

Như khách buôn ngựa hiền.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 320

 

381. “Tỷ kheo nhiều hân hoan,

Tịnh tín giáo pháp Phật,

Chứng cảnh giới tịch tịnh,

Các hạnh an tịnh lạc.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 321

 

382. “Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ

Siêng tu giáo pháp Phật,

Soi sáng thế gian này,

Như trăng thoát khỏi mây.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 322

 

Chú thích:

(1) Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục ái, sân.

(2) Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh.

(3) Tín, tấn, niệm, định, tuệ

(4) 5 trói buộc: tham, sân, si, mạn, tà kiến

(5) Bộc lưu: dòng nước lũ

(6) Bông lài.

—o0o—

Phẩm Bà La Môn

383. “Hỡi này Bà là môn,

Hãy tinh tấn đoạn dòng,

Từ bỏ các dục lạc,

Biết được hành đoạn diệt,

Người là bậc vô vi.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 323

 

384. “Nhờ thường trú hai pháp (1)

Ðến được bờ bên kia.

Bà-la-môn có trí,

Mọi kiết sử dứt sạch.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 324

 

385. “Không bờ này, bờ kia (2)

Cả hai bờ không có,

Lìa khổ, không trói buộc

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 325

 

386. “Tu thiền, trú ly trần

Phận sự xong, vô lậu,

Ðạt được đích tối thượng,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 326

 

387. “Mặt trời sáng ban ngày,

Mặt trăng sáng ban đêm.

Khí giới sáng Sát lỵ,

Thiền định sáng Phạm chí.

Còn hào quang đức Phật,

Chói sáng cả ngày đêm.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 327

 

388. “Dứt ác gọi Phạm chí,

Tịnh hạnh gọi Sa môn,

Tự mình xuất cấu uế,

Nên gọi bậc xuất gia.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 328

 

389. “Chớ có đập Phạm chí!

Phạm chí chớ đập lại!

Xấu thay đập Phạm chí

Ðập trả lại xấu hơn!”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 329

 

390. “Ðối với Bà-la-môn,

Ðây (3) không lợi ích nhỏ.

Khi ý không ái luyến,

Tâm hại được chận đứng,

Chỉ khi ấy khổ diệt,”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 330

 

391. “Với người thân miệng ý,

Không làm các ác hạnh

Ba nghiệp được phòng hộ,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 331

 

392. “Từ ai, biết chánh pháp

Bậc Chánh Giác thuyết giảng,

Hãy kính lễ vị ấy,

Như Phạm chí chờ lửa.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 332

 

393. “Ðược gọi Bà-la-môn,

Không vì đầu bện tóc,

Không chủng tộc, thọ sanh,

Ai thật chân, chánh, tịnh,

Mới gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 333

 

394. “Kẻ ngu, có ích gì

Bện tóc với da dê,

Nội tâm toàn phiền não,

Ngoài mặt đánh bóng suông.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 334

 

395. “Người mặc áo đống rác,

Gầy ốm, lộ mạch gân,

Ðộc thân thiền trong rừng.

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 335

 

396 “Ta không gọi Phạm Chí,

Vì chỗ sanh, mẹ sanh.

Chỉ được gọi tên suông

Nếu tâm còn phiền não.

Không phiền não, chấp trước

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 336

 

397. “Ðoạn hết các kiết sử,

Không còn gì lo sợ

Không đắm trước buộc ràng

Ta gọi Bà-la-môn

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 337

 

398. “Bỏ đai da (4), bỏ cương (5)

Bỏ dây (6), đồ sở thuộc (7),

Bỏ then chốt (8), sáng suốt,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 338

 

399. “Không ác ý, nhẫn chịu,

Phỉ báng, đánh, phạt hình,

Lấy nhẫn làm quân lực,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 339

 

400. “Không hận, hết bổn phận,

Trì giới, không tham ái,

Nhiếp phục, thân cuối cùng,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 340

 

401. “Như nước trên lá sen,

Như hột cải đầu kim,

Người không nhiễm ái dục,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 341

 

402. “Ai tự trên đời này,

Giác khổ, diệt trừ khổ,

Bỏ gánh nặng, giải thoát,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 342

 

403. “Người trí tuệ sâu xa,

Khéo biết đạo, phi đạo

Chứng đạt đích vô thượng,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 343

 

404. “Không liên hệ cả hai,

Xuất gia và thế tục,

Sống độc thân, ít dục,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 344

 

405. “Bỏ trượng, đối chúng sanh,

Yếu kém hay kiên cường,

Không giết, không bảo giết,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 345

 

406. “Thân thiện giữa thù địch

Ôn hòa giữa hung hăng.

Không nhiễm, giữa nhiễm trước,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 346

 

407. “Người bỏ rơi tham sân,

Không mạn không ganh tị,

Như hột cải đầu kim,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 347

 

408. “Nói lên lời ôn hòa,

Lợi ích và chân thật,

Không mất lòng một ai,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 348

 

409. “Ở đời, vật dài, ngắn,

Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu

Phàm không cho không lấy,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 349

 

410. “Người không có hy cầu,

Ðời này và đời sau,

Không hy cầu, giải thoát,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 350

 

411. “Người không còn tham ái,

Có trí, không nghi hoặc,

Thể nhập vào bất tử,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 351

 

412. “Người sống ở đời này

Không nhiễm cả thiện ác,

Không sầu, sạch không bụi

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 352

 

413 “Như trăng, sạch không uế

Sáng trong và tịnh lặng,

Hữu ái, được đoạn tận,

Ta gọi Bà là môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 353

 

414. “Vượt đường nguy hiểm này,

Nhiếp phục luân hồi, si,

Ðến bờ kia thiền định

Không dục ái, không nghi,

Không chấp trước, tịch tịnh,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 354

 

415. “Ai ở đời, đoạn dục,

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Dục hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 355

 

416. “Ai ở đời đoạn ái

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Ái hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 356

 

417. “Bỏ trói buộc loài người,

Vượt trói buộc cõi trời.

Giải thoát mọi buộc ràng,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 357

 

418. “Bỏ điều ưa, điều ghét,

Mát lạnh, diệt sanh y

Bậc anh hùng chiến thắng,

Nhiếp phục mọi thế giới,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 358

 

419. “Ai hiểu rõ hoàn toàn

Sanh tử các chúng sanh,

Không nhiễm, khéo vượt qua,

Sáng suốt chân giác ngộ,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 359

 

420. “Với ai, loài trời, người

Cùng với Càn thát bà,

Không biết chỗ thọ sanh

Lậu tận bậc La hán.

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 360

 

421 “Ai quá, hiện, vị lai

Không một sở hữu gì,

Không sở hữu không nắm,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 361

 

422. “Bậc trâu chúa, thù thắng

Bậc anh hùng, đại sĩ,

Bậc chiến thắng, không nhiễm,

Bậc tẩy sạch, giác ngộ,

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 362

 

423. “Ai biết được đời trước,

Thấy thiên giới, đọa xứ,

Ðạt được sanh diệt tận

Thắng trí, tự viên thành

Bậc mâu ni đạo sĩ.

Viên mãn mọi thành tựu

Ta gọi Bà-la-môn.”

Kinh Pháp Cú với 423 bài kệ và hình vẽ minh hoạ 363

 

Chú thích:

(1) Thiền Chỉ và Thiền Quán

(2) 6 nội xứ, 6 ngoại xứ

(3) Sự trả đủa, trả thù

(4) Hận.

(5) Ái.

(6) Tà kiến.(

7) Tuỳ miên.

(8) Vô minh.

—o0o—

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *